CÂU CHUYỆN VĂN HỌC

 

PHIẾM

Từ mấy năm nay trên báo Thời Báo ở Toronto (nơi tôi cư ngụ) đă xuất hiện một mục được người đọc đón nhận thật nồng nhiệt: Phiếm của nhà văn Song Thao. Và nhà văn Song Thao đă cho xuất bản đến cuốn Phiếm thứ 5. Điều đó chứng tỏ phiếm là thể loại đượcngười Việt hải ngoại khắp nơi ưa chuộng văn học.

Thật ra phiếm không phải là một thể loại văn chương mới. Trên báo chí Sài G̣n trước 1975 đă có nhiều cây viết phiếm nổi tiếng với giọng văn hài hước, khi th́ chỉ để vui đùa khi th́ châm biếm một cách sâu sắc. Ta có thể kể: Hiếu Chân với “Nói Hay Đừng” (báo Tự Do), Chu Tử đào “Ao Thả Vịt” “ (báo Sống), Phan Lạc Phúc có “Tạp Ghi” (báo Tiền Tuyến)…

Hiện nay trên văn đàn hải ngoại, Bùi Bảo Trúc nổi tiếng với loạt bài “Thư Gởi Bạn” (trên nhiều báo). Riêng tại Toronto, Lẩm Cẩm hàng tuần đều có “Ba Điều Bốn Chuyện" nói với người đọc, nhà văn Trà Lũ với nhiều bài viết về nơi Đất Lạnh T́nh Nồng (Canada) đăng rải rác trên các báo và được gom lại thành sách với danh xưng họ nhà Đất (Miền Đất Hạnh Phúc – Đất Mới – Miền Đất Hứa – Đất Thiên Đàng – Đất Yêu Thương – Đất Lạnh T́nh Nồng – Đất Quê Ngoại – Đất Anh Em…), và như trên đă nói nhà văn Song Thao hằng tuần “phiếm” “đều chi” cùng người đọc trên Thời Báo với các đề tại được đặt tên một cách cô đọng thật độc đáo với chỉ một hay hai chữ mà thôi “Biển – Lăo – Phở – Quậy…) và cũng được gom thành sách xuất bản đến cuốn thứ 5 rồi.

Phiếm có hai h́nh thức: Phiếm nói và phiếm viết.

Vương Xương Linh ngày xưa đă có câu: “Cô vọng ngôn chi cô thính chi…” (Nói láo mà chơi nghe láo chơi… - Tản Đà). Trong chúng ta, ai lại không có lúc cùng bạn bè ngồi tán gẫu, b́nh… loạn về đủ mọi đề tài: trời đất, nắng mưa, mây gió, chính trị (chính em), khoa học, nghệ thuật… Đây là h́nh thức “phiếm nói”. Khi được đưa vào văn học bằng những bài viết ta có “phiếm viết”. Phiếm nói và phiếm viết tuy cùng là phiếm cả nhưng cũng có sự khác biết. Nếu ở phiếm nói chúng ta có quyền lan man một cách vô tư, thoải mái không bị ràng buộc hay hạn chế bởi bất cứ điều ǵ, th́ phiếm viết không được lan man một cách quá đáng, nói cách khác, lan man có sắp xếp, có bài bản hơn. Trong khuôn khổ bài này xin chỉ tŕnh bày về phiếm viết thôi.

Khi viết phiếm tuy mỗi người có lối viết, có cách kể chuyện theo sự duyên dáng của riêng ḿnh, không ai giống ai, nhưng chúng ta có thể t́m được một mẫu số chung cần  phải có để thành công trong việc viết phiếm: Cái duyên dáng, dí dỏm của lời văn và cái kiến thức rộng răi.

Chúng ta hăy thử đọc một vài đoạn trong các phiếm của Song Thao

v  Song Thao đă phiếm về “G̣ Bồng Đảo”: “đàn ông có một cơ phận cũng đầy đủ t́nh tiết hoa văn như đàn bà. Như hệt nhau. Chỉ có một cái tội nó không phồng lên mà không phồng lên th́ thật vô duyên và vô dụng. Chỉ có nh́n không cũng phát chán. Cái đó người ta thoải mái gọi là vú. Cũng cái đó mà phồng lên th́ gọi như vậy là khiếm nhă.

Như vậy khác nhau ở chỗ một đàng dẹp lép như cái màn h́nh TV flat screen, một đàng ngạo nghễ vươn lên như thách thức với cặp mắt của thiên hạ… một đàng cho chẳng thèm lấy, nh́n c̣n phải bĩu môi. Một đàng đắt giá như vàng như ngọc, nh́n chẳng muốn rời mắt” (G̣ Bồng Đảo – Phiếm trang 155 – 156).

v  Và đây Song Thao phiếm về “Răng”: “Khi răng… hết thuốc chữa th́ khỏi chữa luôn. Chơi một bộ răng giả là xong. Thường các cụ bắt răng phục vụ lâu quá, răng oải răng… đi chơi. Cho anh nướu răng… cô đơn! Nướu răng tiếng Bắc Kỳ diễn nôm là … lợi

Bà già đi chợ Cầu Đông,

Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng.

Thầy bói gieo quẻ nói rằng

Lợi th́ có lợi nhưng răng không c̣n.

Răng giả cũng có cái vui của răng giả. Nó cho chúng ta hưởng được cái thú vui vừa đánh răng vừa huưt sáo! Nhưng v́ nó không dính chặt vào miệng mà chỉ khi on khi off nên cũng có cái phiền” (Răng – Phiếm, trang 286).

Qua hai trích đoạn trên, chúng ta đă bị lôi cuốn đọc quên thôi, đọc mệt nghỉ cũng v́ cái lối hành văn đầy duyên dáng, đầy dí dởm của người viết.

Chuyện phiếm muốn cho hay, ngoài lời văn duyên dáng, dí dóm, c̣n cần phải điểm xuyết thêm những nụ cười bằng những câu chuyện cười chay hay mằn mặn.

Để minh họa cho cái phiền của hàm răng giả như đă thấy ở trích đoạn bên trên nhà văn Song Thao đă kể cho chúng ta một câu chuyện vui:

“Sau những ngày đông giá lạnh chợt một chiều thời tiết trở nên ấm áp, cặp vợ chồng nọ ra ngồi ngoài hiên nhà sưởi nắng và ôn lại quá khứ. Bà già nói với ông già:

-        Em nhớ ngày xưa anh thường ngồi sát vào em.

Ông già xích lại sát bên bà vợ. Bà già lại tiếp:

-        Em nhớ hồi đó anh thường choàng tay ôm chặt em.

Ông già run rẩy ṿng tay qua eo bà già, siết chặt lại. Bà già lim dim mắt nhớ lại:

-        Em nhớ là anh c̣n thích cắn vào vai em nữa kia !

Ông già lặp cặp đứng lên:

-        Được! Được ! để anh vào nhà lấy hàm răng giả ra đă. (Răng – Phiếm, trang 286)

Chúng ta thấy, nếu không có cái duyên dáng, cái dí dỏm thiên phú, cộng thêm cái khả năng diễn đạt th́ không thể viết phiếm được. Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Người viết phiếm c̣n phải có một kiến thức rộng răi, phải biết nhiều, và hơn thế nữa, phải có cái nh́n tinh tế, phải biết phân tích, phải biết lựa chọn để đưa những tài liệu phù hợp với đề tài ḿnh viết.

Đọc phiếm, chúng ta sẽ học hỏi được vô số kiến thức trải dài từ những sự việc thông thường hằng ngày đến những sự kiện khoa học, qua lănh vực lịch sử, văn học, nghệ thuật …

Sống ở Canada nói riêng, Bắc Mỹ nói chung, ai trong chúng ta cũng đều có dịp thưởng thức món khoai tây chiên của nhà hàng Mac Donald, nhưng mấy ai trong chúng ta lại chịu khó để ư đến cái củ khoai tây của Bắc Mỹ có gốc rễ như thế nào. Nhà văn Trà Lũ đă giúp chúng ta biết được điều đó:

Anh John gốc Canada chánh hiệu đă đứng ra tổ chức mừng Quốc Khánh (Canada). Anh bảo vợ làm món ăn thuần khoai tây. Chàng rể Việt Nam này đă đọc bài diễn văn chào mừng làng nhậu rất hay. Anh cho biết khoai tây đă đi vào Canada trước Việt Nam. Gốc nó lớn và dài lắm. Củ khoai tây có gốc từ Nam Mỹ. Mấy ông thực dân Tây Ban Nha khi xâm chiếm Nam Mỹ vào đầu thế kỷ 16, đă đem khoai tây về cố quốc. Nhưng cây khoai tây đă nằm yên trong vườn bách thảo 200 năm. Măi về sau người Tây Ban Nha mới biết đây là cây thực phẩm bổ dưỡng. Từ đó khoai tây có mặt khắp Châu Âu. Rồi người Anh mới đem nó sang Bắc Mỹ. Nó gốc Nam Mỹ mà phải đi ṿng quanh Châu Au rồi mới tới Bắc Mỹ, nghĩ cũng kỳ thiệt ! Lúc đầu người ta chỉ dùng nấu rượu và làm thực phẩm cho gia súc. Bây giờ th́ khoai tây có mặt trên bàn ăn của mọi gia đ́nh… Ở Canada khoai tây trồng ở mấy tỉnh bang miền đông thơm ngon có tiếng.” (Khoai Ta Khoai Tây. Đất Anh Em, trang 63)

Tết sắp đến chúng ta lại có dịp lai rai ba sợi, làm bạn với Budweiser, Hennekein, … nhưng nếu có ai hỏi ta bia từ đâu mà có th́ không ít người trong chúng ta khá lúng túng t́m câu trả lời. Nhà văn Song Thao đă giúp chúng ta giải đáp: “Bia do ai sáng chế ra mà thần sầu như vậy? Chính dân chúng thành Babylone đă là tác giả của bia từ 8000 năm trước Công Nguyên. Khoảng 2000 năm sau đó, người Ai Cập mới biết làm bia chứa trong những b́nh lớn. Tới thế kỷ thứ 17, nhà bác học Antonius Van Leeuvenkock mới quan sát các yếu tố tạo nên bia. Hai thế kỷ sau nhà bác học Louis Pasteur mới chứng minh được là sự lên men bia không phải chỉ là phản ứng hóa học mà c̣n có sự tham gia của các vi sinh vật kỵ khí, đó chính là men bia. Men bia là một loại nấm đơn bào nhiều công dụng thường được dùng để sản xuất bia, rượu, rượu vang, bánh ḿ …” (Bia-Phiếm, trang 25)

Về mặt văn học nghệ thuật, chúng ta thấy trong phiếm hiện diện đầy đủ ca dao, truyện cũ truyện mới, thơ cũ thơ mới, … Nhân dịp đầu xuân, nhà văn Trà Lũ trong phiếm “Tiệc Tất Niên” (Đất Anh Em, trang 109) đă sưu tầm được một bài thơ xuân thật độc đáo:

“Trong bửa ăn th́ ông ODP khoe là vừa nhận được thư thăm hỏi của ông Từ Ḥe với hai bài thơ … Bài thơ thứ nhất mang tên “Cảnh Xuân”, như thế nầy:

Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời

Thú vui thơ rượu chén đầy vơi

Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc

Lá nguyện hương xuân sắc thắm tươi

Qua lại khách chờ sông lặng sóng

Ngược xuôi thuyền đậu bến đông người

Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng

Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.

Ông Từ Ḥe đố tôi có ǵ đặc biệt. Tôi nghĩ hoài không ra … Thấy tôi chịu thua ông mới giảng: bài thơ nầy là bài thơ mẹ, nó sinh ra nhiều bài thơ khác. Chẳng hạn bớt hai chữ đầu mỗi câu, ta có bài thơ như thế nầy:

Cảnh xuân ánh sáng ngời

Thơ rượu chén đầy vơi

Dậu trúc cành xanh biếc

Hương xuân sắc thắm tươi

Chẳng hạn  bớt 4 chữ đầu mỗi câu:

Ánh sáng ngời

Chén đầy vơi

Cành xanh biếc

Sắc thắm tươi.

Chẳng hạn bớt 3 chữ cuối mỗi câu:

Ta mến cảnh xuân

Thú vui thơ rượu

Hoa cài dậu trúc

Lá nguyện hương xuân.

Cũng chưa hết, cái tài t́nh của bài thơ. Đây là một bài thơ thuận nghịch độc. Đọc ngược từ dưới lên ta vẫn có một bài thơ đầy đủ ư nghĩa.

Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha

Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa

Người đông, bến đợi thuyền xuôi ngược

Sóng lặng, sông chờ khách lại qua

Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá,

Biếc xanh cành trúc dậu cài hoa,

Vơi đầy chén rượu thơ vui thu,

Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.

Cũng chưa hết cái tài t́nh đâu. Bài đảo ngược nầy đem cắt 2 chữ hay 4 chữ đầu câu hay 3 chữ cuối câu theo kiểu ở trên, cũng vẫn thành một bài thơ”

Để kết luận, chúng ta có thể nói tuy bản chất của phiếm là lan man nhưng thực tế mỗi bài phiếm là một tác phẩm được viết bằng tất cả công phu. Người viết phiếm phải có văn tài để sử dụng được sự duyên dáng, sự dí dỏm đem lại vui cười cho người đọc. Người viết phiếm phải đọc nhiều, phải biết nhiều để đem tài liệu vào bài viết như một luận chứng, một cơ sở cho những điều ḿnh viết. Có thể nói phiếm tưởng như là một món ăn chơi nhưng lại có tác dụng bổ ích không kém ăn thật. Đọc phiếm kiến thức chúng ta được bổ sung mà không phải tốn kém công phu sưu tầm. Đọc phiếm chúng ta sẽ được thư giăn hoàn toàn, tâm thần khoan khoái v́ chúng ta đă được bồi dưỡng bằng không biết bao nhiêu thang thuốc bổ. Các cụ chúng ta chả thường nói: “một tiếng cười bằng mười thang thuốc bổ” đó hay sao. Bertrand Russel cũng đă nói: “Laughter is the most inexpensive and most effective wonder drug”.

 

Đoan Huyền

 

Xem tiếp

Mục lục