KhoaHọc và Đời Sống : Bo Bo
Thanh Tâm
(Khóa 3)
Ăn miếng
Bo Bo nhớ một
thời
Cơm c̣n
chửa chín nuốt sao trôi
Bo, khoai
độn sắn cho qua bữa
Bụng
đói, đầu đau vỡ mộng đời
T́nh
cờ vào thư viện t́m sách, tôi chợt thấy quyển
barley- chemistry and Technology của Alexander W. MacGregor và Rattan S.
Bhatty xuất bản bởi American Association of Cereal Chemists,
Inc. St. Paul, Minnessota, USA. Trong lúc tôi ṭ ṃ lật
qua coi, những h́nh ảnh bobo ngày xưa lần lượt
hiện về trong vùng kỷ niệm. Nghĩ đến
loại thực phẩm một thời ăn trong cuộc
đời nhưng có nhiều bí ẩn, nên tôi xin tóm lược
vài nét đại cương, ước mong được
Thày Cô và các bạn chỉ giáo thêm.
Từ ngàn xưa, Con người
được xếp trong nhóm động vật
có xương sống. Người ta phân biệt con người
với động vật bằng nhiều cách khác nhau
như:
- Con
người là con vật không có lông
- Hay con
người là con vật có lư trí.
- Theo quan
niệm tiến hóa th́ con người từ một giống
khỉ trải qua hàng
ngàn năm tiến hóa mà thành.
- Đứng
theo khía cạnh thực phẩm, Con
người là động vật hiểu thấu đáo,
biết canh tác và cải thiện được thực phẩm
của ḿnh để sinh tồn. V́ cơ cấu sinh hóa khác
nhau nên mỗi loài có thức ăn riêng,
nhưng sau khi được tiêu hóa chúng đều cho ra một
loại đường đơn giản để có thể
hấp thụ tạo năng lượng nuôi sống
cơ thể như nhau.
Hợp chất đường
nằm dưới nhiều h́nh thức khác nhau, nó có dạng
đơn giản như glucose, fructose, maltose... nhưng có
những dạng phức tạp hơn như cellulose, lipid,
protein… cần có
những loại enzyme thích hợp để có thể
tiêu hóa được.
Dựa vào sự biến hóa
này, người ta đă chế biến gỗ, cỏ cây
thành đường… Tuy nhiên giá thành cùa
đường này lên rất cao. Thực ra, trong pḥng
thí nghiệm người ta đă thường dùng hỗn hợp
Meganzyme b-glucosidase và Megazyme cellulase phân hủy bo
bo thành glucose, một dạng đường đơn giản.
Bo bo
có nên dùng
trong thực phẩm không? Bo bo dịch từ tên của lúa Barley, người
miền Nam gọi là lúa mạch. Nó được dùng nhiều
trong kỹ nghệ làm bia và rượu
whisky (malting and brewing industries), thực phẩm gia súc (a
livestock feed).
Bo bo là loại
hạt đứng hạng thứ tư trong 8 loại hạt
trồng. Bo bo được xếp vào
loại cây cỏ họ Poaceae, tộc Triticeae và giống
Hordeum. Bothmer và
Jacobsen (1985) Bothmer et al (1987, 1991) xếp vào loại Taxamomy do
tính thù h́nh và kinh tế của nó. Giống hai râu xuất hiện
chừng 8000 năm trước BC ở Iran- Măi tới
năm 6000 trước BC th́ giống 6 râu mới thấy. Thực ra, những
giống bo bo chúng ta thấy ngay nay đă
xuất hiện ở vùng sông Nile 17000 năm trước rồi,
ở trong vùng thung lũng của Ai Cập (Wendorf et al 1979).
Hiện thời bo bo được trồng cấy ở
nhiều nơi như Phi châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Á
Châu, Âu Châu, Liên bang Sô viết cũ. Giống 2 râu được
dùng trong kỹ nghệ bia và bánh. Trái lại
giống 6 râu không lên men được nên chỉ dùng nuôi
gia súc và không có lợi về kinh tế, nên lượng sản
xuất ngày càng giảm dần .
Vào
năm 1988, bo bo đứng hàng thứ nh́ về ngũ cốc
ở Canada (12.6 triệu tấn)- ở
USA sàn xuất 9.1 triệu tấn trong năm. Chính phủ Mỹ
thu về 5.6 tỷ dollars trên rượu
bia và thức ăn gia súc 2.4 tỷ dollars. Ở Ai cập cổ
xưa và Nubia, bo bo được dùng làm
bánh, một loại bánh đặc sản v́ mùi thơm men
rượu và có màu đẹp do bo bo sau khi được
lên men cho ra, khác với bánh làm ra từ lúa ḿ.
Bo bo
thường được gieo trồng ở miền nóng
và cao nguyên - nó có hai loại giống, dựa trên lông tơ gắn
trên mộng hạt như sau:
Barley
(six row) giống bo bo 6 râu : là loại có
sáu hàng lông tơ - ( Hordeum hexastichon). Hạt có
hai h́nh dạng tùy thuộc vào lúc lúa trổ bông. Lưng thóc thường bị cong, phần trong
th́ trũng nhiều. Phần trấu dính
vào hạt. Tương tự như giống
hai râu mộng rất ḍn và dễ găy.
Barley (two row) bo bo loại
2 hàng lông tơ gắn vào mộng (Hordeum distichon). Hạt màu
cam, tươi sáng hay tối tùy thuôc vào từng giống và
thời gian thu hoạch hạt thon dài,
đối ứng đều đặn. Mộng
đôi khi được giấu kín trong cơm hạt và dễ
găy.
Bo bo
có chứa hàm lượng lysine, tinh bột amylase và b- glucan. Ngoài ra chưa thấy có tính chống lại sự
hấp thụ những chất bổ dưỡng. Do
những tính đặc thù của bo bo nê n bo bo không thich
ứng làm thực phẩm trực tiếp của con
người. Ngoại trừ dùng lên mộng trong kỹ nghệ
rượu bia gọi là malting.
Chỉ
có vài nước dùng bo bo trong kỹ nghệ
bánh như vùng phía tây Châu Á, Bắc Phi, Đại Hàn và Nhật
bản. Đặc biệt ở Việt nam đă dùng bo bo trực tiếp cho thực phẩm con
người.
V́ tính kinh tế, người
ta đă định đưa bo bo vào thực
phẩm cho con người nhưng không thành công trong công nghệ.
Thực vậy, vào thập niên 1981-1992, thế giới sản
xuất được chừng 170 triệu tấn bo bo, có
chừng 100 ngàn tấn bột được trộn chung
bột bắp và bột lúa ḿ để làm bánh- nhưng kết
quả phẩm chất rất thấp, những tính đặc
thù của bo bo làm cho kỹ nghệ làm bánh trở nên phức
tạp và tốn kém hơn, việc xử dụng bo bo trong
kỹ nghệ bánh bị ngưng lại.
Trở ngại dùng bo bo trong thực phẩm có thể do thành phần
gluten chứa trong bo bo cao. Ngoài ra do amylase và lipid tương
ứng chứa trong bột bo bo
tương đối thấp ảnh hưởng lớn
tới độ nấu chin bo bo với lượng nước
đủ lớn. Bột bo bo không thể
thấm nước để trương lên, độ
dính thấp đă ảnh hưởng đến việc xử
dụng bo bo. Ngay cả khi bo bo có độ
amylase cao cũng c̣n rất khó nở trương lên như
các bột khác là do tác dụng của amylopectin làm cho độ
nở trương giảm thấp. Lượng b- glucan có
trong bo bo vào khỏang 4 tới 7 % trọng
lượng của hạt, và hàm lượng sợi dietary
cao.
Trong bo bo, arabinoxylans và
các thành phần phụ sinh giúp cho việc phân hủy
polysaccharides thành glucose và được lên men trong kỹ
nghệ bia rượu. Các loại đường như
glucose, fructose, sucrose, maltose, raffinose, fructans và glucodifructose có
hàm lương rất thấp trong mộng thóc do sự nảy
mầm, thu hồi lượng đường trong lúc sinh
mộng của bobo cho một loại đường đặc
biệt gọi là mạch nha.
Thành phần hóa học của
bo bo:
Bo bo gồm
có protein nguồn nitrogen trong hạt, có chứa albumins,
globulins, glutelins và prolamins. Hàm lượng
protein ảnh hưởng nhiều trong việc lên mộng
(malting). Theo P. R Shewry Dept of Agri. Science Bristol Uni. Protein
có hàm lượng từ 8-15% trong hạt khô, thấp
hơn đường nhưng đóng vai tṛ thủy phân của
enzymes như amylases và b-glucanase trong tiến tŕnh lên men kỹ
nghệ bia rượu.
Trọng tâm việc xử dụng
bo bo trong kỹ nghệ bia rượu whisky, đường
mạch nha, nhiều dạng cholesterol nhờ nước
ngâm thấm qua hạt bo bo mà mộng thóc được phát triển. Khảo
sát bằng cách cắt ngang hạt lúa giống thấy rơ
cơ cấu hạt thay đổi. Sự biến đổi
sinh hóa sản xuất adenosine 5’-triphosphate cần thiết
cho sự tổng hợp của acid nucleic và phospholipids
Lipid trong bobo từ 2-4%
dưới dạng triglyceride fatty acid không băo ḥa như
linolic và oleic (Palmer 1989). Có
hai loại lipid là free (tự do) và dạng kết hợp
(bound). Non starch polysaccharides ở dưới dạng
fructanns, cellulose, b-glucans, arabinoxylans và glucomannans.
Những
nguyên tố t́m được trong bo bo
như: N, P, K, Ca, Mg, Na, Fe, Zn, Mn, Cu với hàm lượng
khác nhau. Nói chung hạt lúa bo bo sau khi thu hoạch có thành phần
độ ẩm chừng 15%, hợp chất đường
80%, protein 10% , lipid 3% và khoáng chất 2%. Hợp
chất đường gồm có fructans, rafinose với
lượng nhỏ fructose và glucose.
Thành h́nh và phát triển hạt bo bo bắt nguồn từ sự tổng hợp
quang hóa, đặc biệt đường sucrose không xuất
hiện trong quá tŕnh này. Người ta vẫn chưa biết
chắc rằng đường sucrose được tạo
thành do amino acid bị phân hủy bằng amyloplast hay không.
Thành phần cấu tạo bo bo |
%dryweight |
Carbohydrate |
78-83 |
Starch |
63-65 |
Sucrose |
1-2 |
Other sugars |
1-1.5 |
Water soluble polysaccharides |
8-10 |
Akali soluble polysaccharides |
4-5 |
Cellulose |
23 |
Lipid Protein Albumina and globulins Hordeins Glutelins Nucleic acid Minerals Others
|
10-12 3-5 3-4 3-4 0.2-0.3 2 5-6 |
Dữ
kiện từ
Harris (1962)
Kết luận: Việc sử dụng
bo bo làm thực phẩm con người rất giới hạn
v́ con người không thể tiêu hóa thành đường dạng
đơn giản để hấp thụ vào cơ thể
ngoại trừ trường hợp tạo giống mộng
(malting) để lên men làm bia, rượu whichky hay dùng nuôi
súc vật. Trong công nghệ hiện đại người
ta c̣n dùng làm bột hồ, giấy, kỹ nghệ polymer hay
kỹ nghệ chế biến thực phẩm chứa
fibre, hay nhiên liệu.