TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU... KHÔNG HỀ PHAI 

 

 

 

Thưa Thầy em đây! Đó là câu nói đầu tiên, mà em thường lên tiếng mỗi khi gọi phone cho Thầy, và lập tức Thầy nhận ra em ngay “ Có phải C đó không em?” Vâng em đây, có đứa học tṛ nào không sung sướng khi Thầy nhận ra ḿnh.

Nhà thơ Tô Thùy Yên khi từ trại CT về có làm bài thơ dài 122 câu mang tựa đề là “Ta Về”, bài này được nhà phê b́nh văn học xưng tụng là một bài hành “bi hùng” nhất của văn học VN vào hậu bán thế kỷ 20. Em đă nghiền ngẫm bài thơ rất nhiều lần, và lần hồi em cũng khám phá ra nhiều điều ảo diệu của nó nằm dấu ḿnh sau những câu chữ của nhà thơ. Trong đó có 4 câu em thường nhớ:

“ Ta về nghiêng mái đầu sương điểm,

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.

Cám ơn hoa đă v́ ta nở,

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”…

Thưa Thầy, người ta có thể ngắm hàng trăm loài hoa, nhưng không phải hoa nào người ta cũng thích, mà chỉ thích loài hoa nào khi ngắm nh́n nó người ta cảm thấy rung động, v́ h́nh như giữa hoa và người có sợi dây tương thông vô h́nh nào đó mà không sao giải thích được. Đối với Thầy, em cũng có một cảm giác tương tự, bởi lẽ em ngưỡng mộ rất nhiều Thầy Cô, nhưng khi đặt bút xuống để viết một bài viết, em lại nghĩ ngay đến Thầy. Cám ơn Thầy đă tạo cho em một niềm hưng phấn, một niềm vui, và đó có phải chính là “ Thế giới vui từ mỗi lẽ loi”.

Niên khóa 70-71, là  niên khóa cuối cùng của em tại trường THTD. Và trong những giờ phút chót c̣n ngồi trong lớp, em đă lấy đầu nhọn của chiếc compa để rồi cặm cụi khắc tên ḿnh lên mặt bàn, vừa khắc tên vừa cảm thấy ḷng ḿnh rưng rưng, v́ em biết rằng em sắp sửa rời xa ngôi trường thân yêu của ḿnh, ngôi trường mà em đă miệt mài suốt 8 năm trời đầy kỷ niệm, một hạnh phúc tinh khôi của buổi đầu đời khi khắc tên ḿnh xong, em tự hứa với ḷng, vài năm sau, em sẽ trở về thăm ngôi trường cũ, sẽ trở về ngồi vào chính cái bàn có tên khắc của ḿnh. Vậy mà, em như đám lục b́nh trôi mải miết không có đường về, và em cũng biết rằng măi măi em sẽ không t́m lại

được chiếc bàn của em ngày xưa nữa.

Thưa Thầy, bây giờ ngồi ngẫm nghĩ lại, em rất trân trọng tấm ḷng của Thầy Cô đối với chúng em ngày trước. Điều này, em và các bạn đă nhắc rất nhiều lần trong các bài viết trước, nhưng em nghĩ không bao giờ dư thừa khi chúng em nhắc đến những ân t́nh đó. Chế độ giáo dục lúc trước đă đào tạo biết bao thế hệ học tṛ, được hoàn thiện từ tri thức đến nhân cách làm người, và đặc biệt hơn hết phần lớn trong đám người này có thể hoàn thành tốt đẹp bất cứ nhiệm vụ nào mà xă hội giao phó. Em nhận ra điều này khi em ở trong trại CT, nhân tài trùng trùng điệp điệp nhiều như là ở trên rừng, và chính họ đă minh xác sự thành công của nền giáo dục trước kia, và trớ trêu thay điều này được xác nhận sau khi miền Nam sụp đổ. Ở trên đời này, không có điều ǵ tuyệt đối cả, nền giáo dục của chúng ta cũng có những sai lầm, những thiếu sót mà măi sau này người ta mới nhận ra. Sau đây là nhận xét của em, hoàn toàn có tính cách chủ quan, có thể đúng có thể sai, điều đó không quan trọng, mà cốt yếu nhằm tâm sự với Thầy. Câu chuyện như thế này, vào một ngày nào đó của năm học đệ nhị trong giờ Pháp văn với cô Nguyễn Thu Hồng, cô Hồng tính t́nh bộc trực thẳng thắn hết ḷng hết sức với đám học tṛ của ḿnh. Cô ngồi vào bàn và gọi một cô học tṛ lên trả bài, cô hỏi học tṛ dăm ba câu ǵ đó, xong cô bảo học tṛ trả lời bằng tiếng Pháp, cô học tṛ cứ ú ớ lọng ngọng. Cô nổi giận đùng đùng quăng tập của học tṛ xuống đất rồi quát lên “Học hành ǵ kỳ vậy, học tiếng Pháp với tôi mấy năm trời, mà tôi kêu lên nói một câu cũng không được, là sao vậy?”

Cô đuổi học tṛ về chỗ, cô học tṛ nhỏ nhặt quyển tập lên, lủi thủi đi về chỗ mà nước mắt lưng tṛng. Em thấy cảnh đó mà nao ḷng quá, nếu cô gọi trúng ngay em, th́ em cũng vậy, không biết nói một câu tiếng Pháp nào hết dù đă học mấy năm trời. Chắc có lẽ lúc đó cô nghĩ tại sao ḿnh dạy hết sức mà học tṛ không thấy tiến bộ ǵ cả, và cả cô học tṛ kia cũng thắc mắc, sao môn Pháp văn này học không vô. Trời ạ! Cả thầy và tṛ đều không hiểu tại sao. Cái nổi niềm ấm ức đó em cứ mang măi trong ḷng, để rồi mấy chục năm sau khi qua tới Mỹ, dần dần em mới “ ngộ” ra được điều ǵ đó. Vâng! Thưa Thầy, điều “cốt tử” cho những người mới chập chững học ngoại ngữ là phải luyện cho bằng được kỹ năng “nghe và nói” nếu không làm được điều này th́ coi như thất bại hoàn toàn, và sau đó người học tṛ dần dần đạt tới một tŕnh độ cao hơn, sẽ chú trọng tới chuyện “đọc và viết”. Em c̣n nhớ, Thầy Cô dạy sinh ngữ cho chúng em thuở đó cứ theo giáo tŕnh ở trên đưa xuống, cứ thế mà truyền đạt, hoàn toàn chú trọng về văn phạm: sujet nằm đầu câu, chia verbe phải thế nào ở th́ hiện tại, tương lai, phân tích câu nghi vấn câu phủ định… hoàn toàn không học chút xíu nào kỹ năng nghe nói. Học tṛ phải học như thế để làm bài tập, để đi thi, chứ không hề để “giao tiếp”. Và dần dần học tṛ cảm thấy môn ngoại ngữ không hấp dẫn chút nào, mà chỉ toàn là những rối rắm, chán chê và vô bổ, đồng thời cộng với áp lực của các môn học chính khác, học tṛ dần xa lánh môn sinh ngữ của ḿnh, và chấp nhận “dốt” mà không chút hối tiếc nào. Điều kỳ lạ là không ai thấy điều sai lầm để sửa đổi, và cứ thế đào tạo ra một đám học tṛ yếu kém về ngoại ngữ. Trời bất dung gian, sau biến cố 1975, một số học tṛ tản mác khắp bốn phương trời, nhiều nhất là định cư trên đất Mỹ, trong đó có em, vào những ngày tháng đầu chập chững vào đất Mỹ, em giống y như  “mán về thành”, lớ ngớ ngù ngờ, em bị bầm dập te tua với đám Mỹ đen Mỹ trắng, và cũng chính v́ lẽ đó em mới khám phá ra rằng, môn học quan trọng nhất trong đời học tṛ của ḿnh chính là Anh văn, th́ đă quá muộn màng, bởi v́ ngoại ngữ nó không “ thấm” vào được trong đầu của một người lớn tuổi như em nữa rồi.

C̣n một điều nữa nền giáo dục của chúng ta đă vấp phải điều sai lầm nghiêm trọng khác, đó là đứng “bên lề” cuộc chiến. Viết tới đây, em chợt buông tiếng thở dài. Thầy có hiểu tiếng thở dài của em không? Xin phép, cho em được nói điều này, phải chi miền Nam có được một ngàn ông thầy mang tên Vũ Ôn Đ́nh. V́ sao? Bởi v́ thầy Vũ Ôn Đ́nh đă làm tṛn bổn phận công dân của ḿnh. Em thấy Thầy “rầy” cô bạn Phạm Kim Duyên làm thơ sao mà buồn quá, Thầy trách cũng phải, mà cô bạn em cũng không sai phạm ǵ, bởi lẽ cô đă được di truyền từ tổ tiên hàng ngàn năm trước. Nói chung, theo chủ quan của em là toàn bộ nền văn học nghệ thuật của nước ta đều mang sắc thái “buồn buồn bi thảm”. Em thấy văn chương thi phú của chúng ta có những câu được lập đi lập lại nhiều lần đại loại như: Buồn tàn thu, Chuyện hợp tan, Gịng sông ly biệt, Chim Quyên xuống đất, Con sáo sang sông, T́nh chết theo mùa đông… Em nghe nhạc quan họ miền Bắc, đến Nam b́nh Nam ai của miền Trung và cải lương miền Nam, đều mang giọng điệu buồn thảm. Gần đây, em có đọc một bài viết, em cảm thấy h́nh như bài viết này đă điểm trúng tử huyệt của dân tộc ḿnh, em xin trích một đoạn: “Tiếng hát Ư Lan là của văn hóa Bolsa (Bolsa là con phố chính chạy vắt ngang Little Saigon của Nam Cali. Chú thích NĐC) đầy nhộn nhịp của bầy kiến nhiều thương tích nhưng hoàn toàn trống rỗng và vô vị. Quần chúng nào th́ âm nhạc đó, tâm thức nào th́ ca sĩ đó. Khánh Hà, Ư Lan , Khánh Ly, là biểu tượng âm thanh của một tập thể văn chương muốn  được ru ḿnh bằng cái năo nề, lẳng lơ, yếu đuối. Đây là những bài văn tế cho những tâm hồn mất quê hương và mất nước. Nietzsche trong cuốn “The Will of Power” có nói tới tâm thức amor fati - cái bịnh tủi thân - cái ḷng yêu số phận bi đát của ḿnh. Cái bịnh Amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho tới tận ngày nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ , qua nhạc Bolero, đă làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc.

Một sử gia người Anh, Toynbee (nếu em nhớ không lầm) đă phát biểu một câu rất ba phải: “ Một dân tộc nhỏ yếu bị một cường quốc đến xâm lược, hoặc là dân tộc này chịu không nổi áp lực ngoại xâm quá lớn nên sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, hoặc là dân tộc này quật cường trổi dậy để sống c̣n." Dân tộc ta sống cạnh anh khổng lồ phương Bắc và đă trải một ngàn năm Bắc thuộc, vậy mà chúng ta vẫn sống c̣n cho đến ngày nay. Vậy th́ em xin hỏi Thầy, một dân tộc có 2 tâm thức đối kháng nhau và cùng tồn tại song song đó là vừa quật cường vừa ủy mị mà vẫn sống c̣n sau khi trải qua hàng ngàn năm đối kháng với cường quốc bên ngoài, đó thật là một điều kỳ lạ em không hiểu nổi, đôi khi em tự hỏi, có khi nào ông cha ta vừa đánh giặc vừa làm thơ thương mây khóc gió, hai chuyện đó hoàn toàn riêng biệt không dính dáng ǵ đến nhau chăng?

Bây giờ em bàn sang chuyện khác, khi ở trong trại CT, một nơi mà em đă từng nói: người tài nhiều như lá ở trên rừng. Và trong đám người tài đó, người miền Bắc chiếm một tỉ lệ áp đảo, tỉ lệ cao hơn nhiều so với người miền Trung và người miền Nam, đặc biệt trong giới có nhiều bằng cấp cao như cao học, tiến sĩ, bác sĩ… phần lớn rơi vào tay người Bắc. Cho đến một hôm em mới đem thắc mắc này để hỏi một bậc đàn anh nằm cạnh em, anh ta người bắc có bằng cao học Quốc gia Hành chánh: “Sao tôi thấy người Bắc các anh học hành giỏi quá, địa hạt nào lănh vực nào các anh cũng đứng đầu?” Anh ta trả lời em rằng: “Bởi v́ khi di cư vào Nam năm 54, chúng tôi không có đất đai để sinh sống, nên con đường duy nhất để tiến thân là phải học hành cho tới nơi tới chốn”. Sau này có dịp tṛ chuyện với Thầy Đ́nh, em cũng đem điều này ra hỏi Thầy, và Thầy cũng trả lời như anh bạn của em vậy: chúng tôi phải học v́ không có đất. Không có đất ư em cảm thấy h́nh như chưa đủ, sau bao ngày tháng suy gẫm em khám phá ra một yếu tố nữa, là yếu tố di truyền, người Bắc rất chuộng chuyện học hành thi cử, và các bậc cha ông thường khuyên con cháu ráng học cho thật giỏi. Ở xứ Bắc hà, có nhiều gịng họ nổi tiếng về khoa bảng, điều này rất hiếm thấy nơi người miền Nam. Mời Thầy đọc đoạn văn như sau “…Ngô Thời Nhiệm là một kết tinh lỗi lạc của một gịng họ mà tài danh và khoa hoạn là bậc nhất Bắc hà. Quê cụ tại làng Tó, ngoại ô Hà nội. Đền thờ họ Ngô có 2 câu đối,mà khi đọc lên ta phải sợ, sợ cái nếp nhà lừng lẫy như thế, bao nhiêu đời liên tiếp. Câu đối như sau;

Thập bát quận công, tam Tể tướng

Bách dư Tiến sĩ, cửu phong Hầu

(Là 18 vị quận công, 3 người làm tể tướng. Hơn 100 Tiến sĩ, 9 vị được phong tước Hầu)

Phan Lạc Tiếp - Quê nhà 40 năm trở lại

Chưa hết đâu, tại hải ngoại trên cái đất Mỹ xa xôi này, có một cái hội mang tên là Hội Ái Hữu Làng Trung Lao, tỉnh Nam định. Làng Trung Lao chỉ là cái làng nhỏ bé b́nh thường như mọi cái làng khác, nhưng có một điều không b́nh thường là tại nơi đây đă sản sinh ra hàng trăm Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ… và ra tới hải ngoại, dân làng Trung Lao vẫn phát huy cái truyền thống “kinh khủng” đó.

Chưa hết đâu, người miền Bắc lại có máu di truyền về Văn học Nghệ thuật, đa số các văn sĩ ,thi sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ… nổi tiếng lẫy lừng trước 75 ở miền Nam đều là người miền Bắc, những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Cung Tiến, Phạm Duy, Hoài Bắc Phạm Đ́nh Chương, Nguyên Sa, Mai Thảo, Chu Tử, Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Duy Trác, Sĩ Phú, Văn Quang, Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy và c̣n vô số nữa.

Thêm một lần nữa em muốn nói đến một ngôi trường kỳ diệu, ngôi trường này di cư từ Bắc vào Nam nên đa số học tṛ là người Bắc, thông thường một ngôi trường chỉ cần sản sinh ra một nhân tài nổi tiếng, là đủ để cho ngôi trường đó hănh diện. Đằng này, ngôi trường di cư kỳ diệu đó đă sản xuất vô số nhân tài kiệt xuất cho đất nước đủ mọi lănh vực, có khi chỉ trong một lớp thôi đă xuất hiện vài ba tay anh hào, chẳng hạn như Du Tử Lê, nhạc sĩ Vũ Thành An, nhà văn Bùi Bảo Trúc, đều học cùng một lớp với nhau. Ngôi trường kỳ diệu đó tên là Chu Văn An.

…Gửi cho anh viên sỏi bên đường/ Anh sẽ đọc ra trăm ngh́n lối cũ/ Gửi cho anh vài nhánh cỏ quê hương/ Anh sẽ đọc đất trời anh sẽ thở… Thưa Thầy đó là 4 câu thơ của Cao Tần, mỗi khi đọc lên em lại thấy bồi hồi xúc động, em đă xa quê 15 năm trời, và hàng đêm trong cái tĩnh mịch thê lương của xứ Mỹ lạnh lùng này, em vẫn tưởng “đất trời em đă thở”. Cổ nhân có câu “ Hồ Mă tê Bắc phong”, khi gió bấc thổi về, con ngựa Hồ ngoảnh mặt về phương Bắc hí một tràng dài để tưởng nhớ nơi nó ra đi. Em chính là con ngưa Hồ đó, nhưng không cần phải đợi gió Bắc thổi về mới nhớ quê như nó, mà là từng đêm, từng đêm! Vào những năm em học lớp 6-7-8, ở lứa tuổi đó, đám học tṛ nhỏ tụi em vừa qua thời con nít bậc tiểu học nhưng cũng chưa là người lớn của tuổi trưởng thành, đầu óc tụi em như tờ giấy trắng. Lúc đó lớp em học môn văn với thầy Trần Ngọc Dưỡng. Thầy là một người có tác phong nghệ sĩ tài hoa, và chính Thầy đă viết một cách trang trọng 2 tiếng “ quê hương” lên tờ giấy trắng tâm hồn của tụi em, bằng những bài ca dao tục ngữ tuyệt vời được truyền từ bao đời ông cha để lại (Trèo lên cây bưởi hái hoa. Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em lấy chồng anh tiếc lắm thay. Ba đồng một mớ trầu cay. Sao anh không hỏi những ngày c̣n không?... Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu. Áo anh sứt chỉ đă lâu. Muốn mượn cô ấy về may cho cùng... Rồi qua năm tháng đám học tṛ chúng em lớn dần lên, được ấp ủ bằng thi ca t́nh tự dân tộc, được nuôi sống bằng hạt gạo, ngọn rau mọc lên từ đất quê ḿnh, cho nên tụi em thấm đẫm “hồn Việt nam” ở trong ḷng, nhưng tụi em chỉ tưởng đó là điều b́nh thường thôi, như cây lá đất trời trên xứ Việt vậy. Cho tới một ngày tụi em có một số bỏ xứ ra đi, trong đó có em, lúc đó em đă ngoài 40 tuổi, cho nên em mang theo hành trang quê hương trong ḷng em rất nặng. Em sống trên đất Mỹ 15 năm trời, mà sao vẫn thấy là người xa lạ, không thể hội nhập như người trẻ được nữa rồi. Cảnh vật ở Mỹ nơi nào cũng đẹp và nơi nào cũng buồn, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, và cứ thế người Việt xa quê lại ngóng trông về quê nhà. Em đă trở về thăm VN dăm ba lần, và trong những chuyến trở về này, em lại thấy trong em một điều lạ lùng. Đó là khi ở Mỹ, em cảm thấy ḿnh là người Việt, và khi về VN, em lại thấy ḿnh là người Mỹ, kỳ lạ chưa? Ở lâu trên đất Mỹ, đời sống tiện nghi vật chất quá cao đă làm “hư” con người em, nóng quá chịu không được, và dơ quá cũng không chịu nổi… và cứ thế nó biến em thành người khác, lúc nào cũng không hay nữa. Em thường về thăm VN vào mùa hè, nên tiết trời oi bức, em không chịu nổi mồ hôi trong người em lúc nào cũng tuôn ra nhớp nhúa, một ngày có khi tắm 3-4 lần, vừa tắm xong 10 phút sau, mồ hôi lại túa ra nữa. Cảnh tượng kinh hồn bạt vía là gịng xe gắn máy lưu thông trên đường, người ở đâu mà đông ngh́n nghịt, rồi mọi người chạy xe lạng lách tranh dành nhau từng nửa cái bánh xe, và trong đám đó, có người thản nhiên phun nước miếng xuống đường, nước miếng cứ văng thoải mái vào người đi sau. Có những tấm bảng đề hàng chử “ cấm không được đái” th́ người ta cố t́nh đọc ngược lại, để mà cứ thế tè thoải mái ở gốc cây, ở góc đường… Và c̣n vô số những điều chướng tai gai mắt nửa, mà em không tiện kể ra đây, nhưng có một điều ngạc nhiên là người ta sống rất “vô tư” trước những điều nghịch lư đó. Và có những lúc nản ḷng, em lại muốn mau mau trở về đất Mỹ, cái đường ṿng loanh quanh đó, em chưa thoát ra được! Người Việt- Người Mỹ- em là ai đây?

Thưa Thầy, “Trăm năm trong cơi người ta”, theo em nghĩ con người dẫu có sống cả trăm năm, nhưng nếu chưa trải qua những cảnh ngộ, những t́nh huống đặc biệt, th́ con người cũng không làm sao hiểu được, những xúc cảm xảy ra trong các t́nh huống đó được. Vào tháng 12-07, vợ chồng em đi dự lễ tốt nghiệp Đại học của đứa con gái, buổi lễ được trường Đại học tổ chức vừa trang trọng vừa đơn giản. Hội trường đông hàng mấy ngàn người, nh́n măi tụi em mới thấy đứa con gái nhỏ xíu của ḿnh, con gái xúng xính trong áo thụng màu xanh đen, đội nón vuông, được xướng tên lên nhận bằng và chụp h́nh trước lá quốc kỳ Mỹ. Vợ chồng em rất vui khi thấy con gái hoàn thành xuất sắc việc học tập, liên tục suốt 5 năm trời “trần thân khoai củ”. Khi giải tán buổi lễ, con gái theo các bạn đi ăn mừng, vợ chồng em đi bộ ra khu để xe, để lấy xe về nhà. Trên đường đi, em chợt nghĩ từ nay con gái không c̣n ở với vợ chồng em nữa, nghĩ tới đó bỗng dưng từ trong ruột bỗng cuộn lên như làn sóng, lan thốc từ dưới bụng lên tới ngực rồi lên cổ, em đang đi bỗng dưng chân em khụy xuống, một nổi buồn kinh khủng nó bỗng trào dâng trong ḷng em. Đêm đó, những kỷ niệm với đứa con dồn dập trở về, từ khi nó mới sanh, cho tới những bước đi chập chững đầu đời, cho tới tiếng nói đầu tiên của nó là tiếng “bố”, nhớ nhất là những ngày sống ở Chicago, có hôm tuyết bay đầy trời, hai cha con co ro đi tới trường học, và nhớ măi những ngày tụi em đi làm về, thấy con gái ngồi học ngồi chơi một ḿnh mà buồn se sắt. Rồi cũng tới ngày, con gái từ giă vợ chồng em để đi xa kiếm việc làm, căn nhà bỗng dưng hiu quạnh không thể tưởng được. Ṛng ră suốt mấy tháng trời, mỗi khi đi làm về, em đi ngang pḥng con gái, em dừng ghé lại, bật đèn lên, nh́n cái bàn computer con ngồi học hàng ngày, nh́n tấm h́nh con tươi cười chụp trong ngày lễ tốt nghiệp, nh́n cái giường con gái nằm ngủ, vẫn c̣n con búp bê để bên gối. Và trong lặng lẽ, em lắng nghe tiếng ḷng ḿnh thổn thức.

Thưa Thầy, có người bạn thân hỏi em “C ơi! Sao ông không chuyển sang viết truyện ngắn truyện dài? Em trả lời “dịu dàng” như một Thiền sư: "Bạn ơi! Ḿnh muốn từ bỏ chuyện đời khi đă ngoài 50 tuổi”. Trả lời bạn xong, câu trả lời cứ lởn vởn trong đầu em, h́nh như không phải vậy, em có muốn từ bỏ chuyện đời cũng khó lắm, mà đúng ra em không có khả năng viết truyện ngắn truyện dài, muốn làm được điều này phải có đầu óc tưởng tượng hư cấu rất phong phú, mà em lại không làm được chuyện đó, em chỉ nghĩ sao và viết vậy. Thế thôi, đ̣i hỏi ngoài khả năng của ḿnh, em sẽ không là chính em nữa. Thầy ơi! Tạm biệt.

 

Viết xong tại Florida , Ngày 7-8-08

Học tṛ xưa,

NGÔ ĐỊNH CHÂU

(Khóa 1)

_______________

 

TB: Xin Thầy Trai đặt 1 cái tựa cho bài viết của em. Và nhắn gửi với Nguyễn Hưng và Ban Biên Tập được toàn quyền edit bài viết của NĐC.

 

Xem tiếp

Mục lục