GHE CƯỚI MẮC CẠN
Truyện Ngắn
Ở Cồn Lá Dừa, hễ nghe tin có đám cưới là cả xóm rần rần như hội. Mà đám cưới thằng Tâm, con trai bác Tư Cò – tay chèo nổi tiếng, bắt nước mát tay – thì càng náo nhiệt hơn. Bà con xì xào: “Nó cưới con Hai Mến bên rạch Ba Chắt, xa tới hai tiếng rưỡi chèo ghe. Thương nhau từ thuở còn cắp sách tới trường mà mãi tới giờ mới nên nghĩa vợ chồng. Hai họ cũng quen biết nhau rồi.” Ờ, mà thương nhau chưa đủ đâu, phải vượt qua cái khoảng cách giàu nghèo nữa. Nhà con Mến làm nghề muối cá, còn nhà thằng Tâm chạy ghe mướn. Nghe đâu hồi đầu cũng có chút trắc trở. Nhưng rồi… trời xuôi đất khiến, tới tuổi phải dựng vợ gả chồng thôi.
Dân xóm nói vui: “Rước dâu đường sông là vậy đó, khó hơn đi bộ. Nhưng có tình thật lòng thì trăm khúc sông cũng không ngăn nổi cái duyên trời se.”
Ở xứ này, đám cưới đâu phải chuyện riêng của hai họ, mà là ngày hội chung của cả xóm, cả ấp. Từ hôm dựng rạp, nấu nướng tới lúc dọn dẹp, bà con ai nấy đều xắn tay vô phụ, coi như việc nhà mình vậy.
Mấy ông, mấy chú lo dựng rạp, căng bạt, kê bàn ghế. Còn mấy má, mấy dì túm tụm trong gian bếp lớn phía sau, thức từ sáng sớm tinh mơ để nấu nướng. Người xắt rau, người làm cá, người nêm nếm – ồn ào, rôm rả như chợ vỡ.
Tụi nhỏ thì chạy lăng xăng, khiêng ly, lau bàn. Đám thanh niên thì đứng đón khách, dắt xe. Chẳng cần ai phân công, việc nào cũng xuôi chèo mát mái, bởi cái tình làng nghĩa xóm đã ngấm vô máu thịt dân miền Tây từ đời nào không biết.
Ngày cưới không chỉ là ngày vui của đôi trẻ, mà còn là dịp để bà con gặp nhau, trà nước chuyện trò. Biết bao mối tình khác cũng nảy nở từ mấy cái đám cưới đậm chất quê này.
Xong tiệc, người dọn bàn, người xách nước, người gom chén đĩa đi rửa, chẳng ai than thở gì. Mấy ông lớn tuổi ngồi nhâm nhi trà, chép miệng: “Tình làng nghĩa xóm bây giờ còn được vầy là quý lắm rồi, bà con ơi!”
Ngộ cái là thằng Tâm chẳng thèm cưới kiểu xe hoa, mà bằng ghe! Ờ, đám rước dâu bằng ghe! Y như trong tuồng cải lương ngày xưa vậy đó. Sáng sớm hôm rước dâu, tiếng chèo khua nước bì bõm vang khắp khúc sông. Trời còn chưa rạng, bác Tư Cò đã lụi hụi sai mấy đứa cháu rửa ghe, trải chiếu hoa, dựng dù đỏ. Đám thanh niên trong xóm thì hì hục khuân dàn loa kẹo kéo, rước luôn thầy đờn ca tài tử – chú Sáu Đờn, tay chân run run nhưng giọng vọng cổ vẫn ngọt lịm như mía lùi.
Ghe chính do bác Tư Cò cầm lái, sau lưng là cả đoàn ghe nhỏ chở bạn bè, bà con xóm giềng. Ai nấy diện đồ đẹp, có bà còn đội nón lá gắn hoa giấy đỏ chói. Cô Tư Hường – bên xóm Chài – ôm nguyên cái loa kẹo kéo, vừa hát vừa khóc. Khóc vì nhớ hồi thằng Tâm còn nhỏ, hay trốn ngủ trưa để mò qua nhà cô hái trộm khế, giờ đã lớn khôn, nay đã có vợ..
Còn chú Sáu Đờn thì ngồi chễm chệ trên mui ghe, ôm cây đờn kìm, hễ nghe tiếng khóc là gẩy liền bản “Lý Bốn Mùa” cho thêm phần tình tứ.
Phía sau, chú Ba Dái hăng hái chỉ huy đội ghe hoa. Ghe ra giữa dòng, trời trong xanh, cò trắng bay thành đàn, ai nấy cười nói rôm rả. Mùi nước sông lẫn với hương hoa dại, tiếng đờn ca hòa cùng sóng vỗ, khiến cả khúc sông như sống dậy – ngày thằng Tâm rước được con Hai Mến về làm dâu xóm Cồn.
Nhưng rồi chuyện không may xảy ra.
Bữa đó nước ròng sớm. Khi đoàn ghe còn cách nhà gái một khúc sông, bỗng “ục ục”… mắc cạn ngay giữa vàm Kênh Dứa!
Trời đất quỷ thần ơi! Nguyên đoàn ghe nằm ụ như cá nục phơi lưới. Nước rút để lộ bãi bùn nhão nhoẹt, cỏ năng mọc tua tủa như tóc rối. Ghe lớn nhỏ đều mắc cạn, chẳng nhúc nhích được tí nào.
Chú Ba Dái – người nhỏ con mà giọng sang sảng, la lên:
“Thôi chết cha rồi! Ghe mắc cạn! Coi chừng mất mặt với bên sui gia!”
Bác Tư Cò buông chèo, phóng xuống bùn, miệng càm ràm:
“Cái con nước khốn khiếp này, năm nào cũng vậy, mà sao hôm nay nó hành mình dữ vậy không biết!”
Cả đám nhốn nháo:
“Nước rút lẹ quá! Ghe chở quà cưới cũng dính luôn rồi!” – chú Ba Dái nhảy ùm xuống bùn.
“Trời đất! Ông Tư không coi con nước hay sao?” – bà cô già ngồi mép ghe thét lên.
“Tui có coi mà! Ai dè hôm nay nó rút sớm hơn mọi khi!” – bác Tư Cò quăng chèo, lội bì bõm.
Sáu Đờn ngồi trên ghe, nhìn xuống mà tim muốn rớt ra ngoài. Đám thanh niên ào xuống phụ đẩy ghe. Quần áo xốc xếch, chân tay lấm lem bùn đất, nhưng chẳng ai kêu ca.
Trên ghe, thằng Tèo – bạn thân chú rể – chọt khuỷu tay thằng Dũng, thì thào:
“Ê mậy, con Tuyết có đi không vậy?”
Dũng liếc sang ghe bên, thấy cô gái ngồi im lìm giữa đám đông ồn ào. Đó là Tuyết – người yêu cũ của Tâm, chia tay ba năm trước vì “môn đăng hộ đối” không xứng.
Lạ thay, khi ghe mắc cạn, chính Tuyết là người đầu tiên nhảy xuống bùn. Cô lặng lẽ đẩy ghe, không một lời than vãn, như thể đang chôn chặt quá khứ dưới lớp bùn non.
“Tụi bây đừng lo! Để tao về kêu thêm ghe nhỏ ra phụ!” – thằng Tèo hét lên rồi lội ngược về xóm.
Tin ghe rước dâu bị mắc cạn lan về xóm. Chưa đầy nửa giờ, cả chục ghe nhỏ của bà con ùa ra tiếp viện. Có ghe chở chiếu, có ghe mang áo quần thay vì đồ cưới đã lấm lem bùn đất. Cô Ba Bảnh – gánh nước mướn – nói như đinh đóng cột:
“Đám cưới mà không mắc cạn, không trục trặc, thì đếch phải đám cưới miền Tây rồi!”
Nhờ sức người, sức làng, đoàn ghe dần thoát khỏi bãi bùn. Khi vào tới bến nhà gái, ai nấy ướt mem, lấm lem nhưng mặt mày hớn hở. Bà Bảy Lựu – đã ngoài bảy mươi – vẫn hăng hái chèo ghe, miệng hò vang:
“Ai ơi đừng để duyên chìm dưới nước,
Chị em ta gầy dựng mối tơ duyên…”
Cả khúc sông như reo vui cùng đám cưới. Cái ngày thằng Tâm rước được con Hai Mến về, trở thành kỷ niệm khó quên nhất vùng – đám cưới mắc cạn giữa dòng!
Cuối cùng, đoàn ghe cưới cũng tấp được vào bến nhà gái. Dù trễ gần cả tiếng đồng hồ, ai nấy mặt mày hớn hở, lưng quần áo dính đầy bùn đất, nhưng cả họ nhà gái chẳng những không phiền mà còn xúc động nghẹn ngào.
Lễ rước dâu diễn ra trong niềm vui rộn rã. Chú rể Tâm vừa đỡ cô dâu xuống ghe, vừa lí nhí:
“Xin lỗi em nghen… ai dè rước em mà suýt chìm ghe luôn!”
Hai Mến cười tươi, nhìn đám bùn dính đầy gấu áo dài:
“Chừng nào anh còn dám lội bùn vì em, thì em còn theo anh tới cùng…”
Cô dâu nước mắt lưng tròng, siết chặt tay chú rể:
“Em hổng ngờ rước em mà cả xóm anh phải lội bùn tới đây…”
Phía sau, Tuyết lặng lẽ quay đi, bước xuống ghe. Chân vừa chạm mạn, cô suýt trượt té thì có bàn tay ai đó đỡ lấy. Là thằng Dũng – mặt mày lấm lem bùn đất nhưng nụ cười bẽn lẽn:
“Coi chừng trượt nữa là té vô đời tui luôn đó nghen!”
Đêm đó, tiệc cưới dưới rạp bên sông rộn ràng tiếng cười. Ánh đèn phản chiếu lung linh trên mặt nước. Người ta ăn uống, hát ca, kể lại chuyện “ghe cưới mắc cạn” như một huyền thoại mới của làng.
Chú Sáu Đờn – tay ca cải lương dạo – chốt đêm tiệc bằng câu vọng cổ đầy tình nghĩa:
“Ghe mắc cạn giữa dòng đâu bằng duyên mắc nợ
Nhờ nghĩa xóm tình quê, đẩy hoài cũng tới bến trăm năm…”
Rồi ngân nga kết thúc:
“Chớ lo ghe mắc cạn giữa dòng
Khi tình người còn sâu hơn sông lớn…”
Dưới ánh đèn măng-sông và tiếng loa kẹo kéo rộn ràng, cả xóm cùng nâng ly chúc phúc. Câu chuyện đám cưới “đẩy bằng tay” ấy trở thành giai thoại – một đám cưới không cần máy móc, không cần ca-nô, chỉ cần nghĩa xóm tình làng và… một ít bùn để thử thách lòng người.
Vài năm sau, chú Sáu Đờn có dịp ghé lại Cồn Lá Dừa. Nhà bác Tư Cò giờ khang trang lắm, nền gạch, mái ngói đỏ chói, bếp núc xây kiên cố. Còn nhà thằng Tâm – con Hai Mến thì khấm khá hẳn, có đứa con trai bụ bẫm tên cu Bin, trắng trẻo như bánh ít, cứ đòi ôm cây đờn của chú không chịu buông ra.
Tâm rót trà mời chú, cười hề hề:
“Nhờ cái bữa ghe mắc cạn năm ấy mà tui cưới được vợ đàng hoàng. Giờ sống tử tế, con cái đề huề.”
Nghe nó nói mà lòng chú ấm hơn cả ly trà nóng.
Con Tuyết – người xưa của Tâm – giờ cùng thằng Dũng, bạn thân Tâm, mở quán cà phê bên rạch Ba Chắt, đặt tên là “Quán Bến Ghe”. Trong quán treo đầy hình cũ, có cả tấm chú Sáu ngồi đờn hồi tóc còn đen nhánh.
Tuyết đưa chú ly cà phê, hỏi khẽ:
“Chú Sáu còn nhớ đám cưới mắc cạn không?”
Chú gật đầu:
“Nhớ chớ. Nhớ như nhớ một khúc vọng cổ, dù đứt dây rồi mà lòng vẫn ngân theo.”
Tuyết cười đôi mắt thoáng xa xăm. Trong bếp, thằng Dũng đang lật vỉ bánh xèo, miệng huýt sáo điệu Nam Xuân. Chú Sáu thầm nghĩ: “Ờ, người ta không lấy được người mình thương, nhưng thương được người mình lấy, thì cũng là phước rồi.”
Về đến nhà, Sáu Đờn lấy cây đờn cũ xuống, gảy vài khúc. Dây đứt nhưng vẫn cứ đờn. Như cái đám cưới năm nào – mắc cạn giữa dòng, nhưng cuối cùng ai cũng tới được bến bờ.
“Giờ già rồi, ngón tay chai cứng không còn đờn hay được nữa, nhưng trong lòng vẫn ngân nga giai điệu ngày xưa. Cái ngày mà một đám cưới tưởng thất bại… lại trở thành kỷ niệm đẹp nhất xứ này.
Tụi trẻ cưới nhau đâu phải vì ghe xuôi mái chèo, mà bởi giữa dòng nước ngược, còn có người sẵn sàng lội xuống, chịu dính bùn cùng mình. Đó mới thật là nghĩa, là tình.
Cho nên mấy chú đừng sợ mắc cạn. Miễn có người chịu cùng mình lội bùn… thì thế nào cũng tới bến.”