VN Lịch sử trường thi – Phần 11
VIỆT NAM LỊCH SỬ TRƯỜNG THI – PHẦN 11
Bài số 11 nầy mô tả cuộc xâm lăng lần thứ hai của quân Nguyên và quân ta đã thắng một cách oanh liệt, trong lịch sử thế giới chưa có dân tộc nào sánh bằng. Đó là một sự thật chứ không phải tự đề cao mình một cách thái quá.
Quả đúng vậy, từ giữa thế kỷ thứ 13 đến giữa thế kỷ thứ 14, kỵ binh Mông Cổ bách chiến bách thắng, gây nên một cơn ác mộng cho toàn thể lục địa Á Âu. Nước Trung Hoa khổng lồ cũng không chịu nổi sức tấn công của Mông Cổ. Nhà Tống hoàn toàn bại trận, vua quan phải nhảy xuống biển tự tử, toàn thể dân tộc Hán phải cúi đầu chịu ách thống trị của rợ Mông Cổ đến non một thế kỷ.
Chiếm được Trung Hoa rồi, đế quốc Mông Cổ trở nên vô cùng rộng lớn, suốt từ bờ Thái Bình Dương đến Đông Âu. Tuy thế, họ chưa thỏa mãn mà còn mưu toan chiếm cả vùng Đông Nam Á và Nam Á nữa. Nhưng chúng đụng phải Đại Việt, một nước bé nhỏ lúc bấy giờ. Ba lần đánh tan đoàn quân Mông Cổ, nước mình đã làm lá chắn vững vàng cho biết bao nhiêu nước khỏi bị ách thống trị tàn bạo của giống dân bán khai và khát máu. Công đầu là của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ngài là vị đại anh hùng, đại ân nhân, không phải riêng của dân tộc Việt Nam mà của nhiều dân tộc khác nữa.
Hãnh diện thay, khi trong những trang sử của ta, có tên của Ngài!
(TIẾP THEO)
.
Đáng đời cái thứ đứa ngu,
Vua mình thì bỏ, kẻ thù lại theo.
Quân Nguyên thua vẫn đeo tham vọng.
Lệnh vua truyền phải chóng gom binh.
Năm mươi vạn sẽ xuất chinh,
Đủ cho Giao Chỉ thành bình địa thôi.
Thái tử Thoát Hoan ngôi thống soái,
Cũng đồng thời là đại tướng quân.
Quân Nguyên chuẩn bị rần rần,
Dự trù hai ngã cũng gần tràn qua.(1360)
Phía Đại Việt mình đà chuẩn bị,
Và phân công tướng sĩ tỏ tường.
Đức Trần Hưng Đạo đại vương
Nhận quyền tiết chế, đảm đương tận tình.
Nhiều tướng tài quên mình vì nước,
Chí khí cao nên được tin dùng.
Phân công cố thủ các vùng.
Mỗi nơi đều có anh hùng hiến thân.
Hưng Đạo Vương đóng quân Vạn Kiếp,
Nơi nào nguy thì tiếp cứu ngay.(1370)
Nhân Tông lo lắng đêm ngày,
Muốn nghe dân chúng giải bày tâm can.
Hội Nghị Diên Hồng (năm Giáp Thân 1284) – Tinh Thần Quyết chiến
Một hội nghị gồm toàn bô lão,
Đến Diên Hồng bào cáo ý mình.
Vua nghe tất cả đồng tình.
Để ngăn chận giặc, hi sinh đến cùng.
Cao quý thay, anh hùng chí khí.
Hàng trăm người nhất trí đồng lòng.
Sức già gối mỏi, lưng còng,
Tình yêu nước vẫn cháy trong tim mình.(1380)
Và cũng chính vì tình yêu đó,
Mà toàn dân đã có quyết tâm.
Cùng nhau giết giặc ngoại xâm,
Vững lòng khi giặc rầm rầm tràn qua.
Giết lương dân, cửa nhà chúng đốt,
Bọn quân Nguyên đội lốt hung thần.
Quân mình buộc phải rút dần,
Bởi vì sức giặc nhiều lần hơn ta.
Vua Nhân Tông quả là nhân đức.
Lòng Ngài luôn một mực thương dân.(1390)
Gặp Trần Hưng Đạo phân trần:
“Trẫm mong dân đỡ một phần tai ương.
“Hay là ta cứ nhường quân giặc.
“Chịu thua đi để mặc chúng vào.
“Chiến tranh gây khổ biết bao.
“Nên dân luôn vẫn ước ao hòa bình.”
Hưng Đạo Vương gập mình bẩm tấu:
“Lòng thương dân cho dẫu bao la,
“Nhưng xin bệ hạ xét qua,
“Giặc vào xã tắc, sơn hà ra sao? (1400)
“Dân phải sống khác nào cầm thú,
“Ngàn năm xưa nhớ đủ xót xa.
“Giặc vào tan nát quê nhà,
“Muôn dân lạc nghiệp thực là khó tin.
“Nếu muốn hàng thì xin bệ hạ,
“Chém đầu thần trước đã rồi hàng”
Vua nghe xúc động bàng hoàng,
Tinh thần chống giặc rõ ràng dâng cao.
Hưng Đạo Vương xiết bao cảm kích,
Nên thảo ngay bài hịch rao truyền.(1410)
Hịch rằng phải đuổi quân Nguyên,
Bảo tồn xã tắc thề nguyền hi sinh.
Khắc vào tay của mình hai chữ:
“Sát đát” ngay để giữ quê nhà.
Thế là ý chí quân ta,
Một là chiến thắng, hai là mệnh vong.
Nhưng địch mạnh khó lòng chống lại,
Quân ta đành lùi mãi không thôi.
Kinh đô giặc đến kia rồi,
Bên sông trí súng từng hồi bắn sang.(1420)
Phòng tuyến mình tan hoang khó trụ.
Thấy kinh đô thất thủ cũng đành.
Triều đình hộ giá khởi hành,
Hôm sau đã đến nơi thành Hải Dương.
Toán quân bám Thiên Trường trú đóng.
Do tướng Trần Bình Trọng chỉ huy.
Binh Nguyên tràn ngập một khi,
Quân mình tan vỡ, tướng thì sa chân.
Thoát Hoan đến, ân cần dụ dỗ,
Hàng quân Nguyên, có chỗ thi tài.(1430)
Tước vương chắc hẳn không sai,
Rồi ra sẽ được lên đài vinh quang.
Trần Bình Trọng quát vang tức giận:
“Đừng mong ta bị dẫn lầm đường.
“Thèm chi vương tước Bắc phương,
“Chẳng thà làm quỷ Nam phương cũng đành”.
Anh hùng tử, danh thành bất tử,
Sống muôn đời trong sử sách ta.
Bấy giờ tin tức loang ra,
Triều đình ai cũng lệ sa hai hàng.(1440)
Nhắc lúc Thoát Hoan sang biên giới,
Thì Toa Đô cùng với chiến thuyền,
Vào Nam, nhiệm vụ quân Nguyên,
Chiêm Thành chiếm được thì liền quay ra.
Đến Nghệ An thì là đổ bộ,
Rồi quân theo đường lộ đánh ra.
Đâu ngờ gặp phải tướng ta,
Ông Trần Nhật Duật đúng là khắc tinh.
Trần Quốc Toản tài tình thiên bẩm,
Khiến quân Nguyên thua đậm chạy dài.(1450)
Chiến công Hàm Tử chưa phai
Trong trang lịch sử rất oai hùng nầy.
Chiến thắng đó làm đầy dũng khí,
Quân Nam mình quyết chí phản công.
Chương Dương thuyền địch khá đông,
Hai người tướng giỏi được đồng chỉ huy.
Phạm Ngũ Lão, tài thì lợi hại,
Lại thêm Trần Quang Khải như thần.
Mọi người nhiệm vụ đã phân,
Khi nghe pháo lệnh xua quân xông vào.(1460)
Thế quân mình khác nào bão tố,
Quân Nguyên thua, vắt cổ chạy dài.
Bên mình cứ đuổi theo hoài,
Cuối cùng hạ trại bên ngoài Thăng Long
Quân Thoát Hoan bên trong xuất trại,
Bị quân mình đánh bại tức thì.
Tàm quân vội vã rút đi,
Tìm nơi trú đóng đợi khi về tàu.
Quân Nam mình ngay sau lúc ấy
Vào Thăng Long ai nấy vui mừng (1470)
Tiệc tùng ca hát tưng bừng,
Chiến công hiển hách vang lừng khắp nơi
Toa Đô thua rời Hàm Tử,
Thoát về tìm căn cứ ẩn thân.
Chọn nơi Tây Kết dưỡng quân.
Bên mình dò biết dần dần bao vây.
Một trận đánh, sông đầy máu đỏ,
Biết bao người đành bỏ cõi dương.
Toa Đô chết ở chiến trường,
Đầu lìa khỏi xác, thảm thương quá chừng.(1480)
Ô Mã Nhi vui mừng thoát chết,
Nhảy lên bờ chạy hết cả hơi,
May sao bờ biển đến nơi,
Cướp thuyền đánh cá mà rời nước ta.
Tin thất trận quả là tiếng sét,
Khiến Thoát Hoan xanh lét mặt mày.
Lệnh truyền quân sĩ rút ngay,
Nếu mà chậm trễ một ngày thêm lo.
Quân tình báo mình do thám được,
Nên định ngay chiến lược phục binh.(1490)
Quân Nguyên đâu biết tình hình,
Đến nơi Vạn Kiếp quân mình đánh tan.
Tên thái tử Thoát Hoan hoảng hốt,
Vội cuộn mình trong một ống đồng.
Đặt lên xe đẩy rồi dông,
Ngày đêm bỏ chạy mà không dám ngừng.
Sáu tháng trước lẫy lừng ghê gớm,
Nửa triệu quân Nguyên sớm tan hoang.
Quân mình thắng trận vẻ vang,
Viết nên trang sử vinh quang tuyệt vời.(1500)